Dòng sông kỳ bí
Phan_30
"Không, ý tôi là nếu không bị lộ tẩy vụ xe ô tô thì cũng không phải là vết máu của cô Marcus trên đó. Chúng ta chả có gì để buộc tội cậu ta."
Whitey nhìn vào cánh cửa phòng thẩm vấn. "Tôi có thể khiến hắn phải cung khai."
"Cậu ta đang giỡn mặt chúng ta thì có," Sean nói.
"Tôi thậm chí còn chưa vào vòng khởi động."
Thế nhưng Sean vẫn nhìn thấy vẻ nghi hoặc trên mặt ông, dấu hiệu đầu tiên của việc nghi ngờ linh cảm của mình. Whitey rất cố chấp và thậm chí là khốc liệt nếu ông tin là mình đúng nhưng lại quá thông minh nên không bị lừa bởi một linh cảm khiến ông gặp hết trở ngại này tới trở ngại khác.
"Hay là cứ để cậu ta đổ chút mồ hôi trong đó đi," Sean nói.
"Cậu ta có đổ chút mồ hôi nào đâu."
"Nếu để cậu ta lại một mình có thể cậu ta sẽ dao động."
Whitey lại nhìn về phía cửa phòng thẩm vấn như muốn thiêu trụi nó. "Cũng có thể."
"Tôi nghĩ mấu chốt của mọi chuyện là khẩu súng. Chúng ta nên bắt đầu từ đó," Sean nói.
Whitey nhai nhai không khí ở trong miệng rồi cuối cùng cũng gật đầu. "Tìm hiểu thêm về khẩu súng đó cũng tốt. Cậu muốn tự tiến hành?"
"Cửa hàng rượu đó vẫn không đổi chủ chứ?"
"Tôi không biết. Hồ sơ từ năm tám mươi hai, chủ cửa hàng lúc đó là Lowell Looney."
Sean mỉm cười khi nghe thấy cái tên đó. "Nghe cũng hay đấy chứ!"
"Sao cậu không tới đó xem thế nào? Tôi sẽ canh chừng tên khốn kia sau lớp kính, xem hắn có bắt đầu ca bài các cô gái bị giết hại trong công viên không."
Lowell Looney năm nay khoảng tám mươi tuổi nhưng trông có vẻ sẽ đánh bại Sean trong cuộc thi chạy một trăm mét. Ông ta mặc áo thun màu da cam của câu lạc bộ thể hình Porter's Gym, quần thể thao màu xanh với một sọc bên màu trắng, giày chạy Reebok mới toanh và chuyển động một cách lanh lẹ và có vẻ không ngại nhảy lên với chai rượu cao nhất trong quầy nếu được yêu cầu.
"Đúng chỗ này," ông ta nói với Sean và chỉ vào dãy chai phía sau quầy thu ngân. "Đi xuyên qua một chai rượu và găm vào tường."
"Hãi thật ấy nhỉ?"
Ông già nhún vai. "Có lẽ sợ hơn phải uống sữa một tí. Nhưng cũng chẳng bằng đi ra đường ở đây vào buổi tối. Cách đây mười năm, một thằng nhóc khùng chĩa súng vào mặt tôi, ánh mắt giống hệt chó dại lên cơn, mồ hôi túa ra trên mặt tới không kịp chớp mắt. Thế mới hãi, con trai ạ. Những kẻ bắn đạn vào tường thì lại khác, là những tay chuyên nghiệp. Những tay chuyên nghiệp còn có thể đối phó được. Chúng chỉ cần tiền, chứ không cần mạng."
"Vậy hai gã đó..."
"Tiến vào bằng cửa sau," Lowell Looney nói và lướt về phía cuối quầy thu ngân nơi có một tấm rèm cửa màu đen che khuất khu nhà kho phía sau. "Ngoài đó có một cánh cửa dùng để nhận hàng. Vào thời điểm đó tôi có một thằng nhóc làm việc bán thời gian, lúc xảy ra chuyện nó đang ra ngoài đổ rác và hút thuốc. Có tới nửa số lần nó quay trở vào mà quên khóa cửa. Hoặc nó là tay trong hoặc bọn kia đã theo dõi nó từ lâu và biết rằng nó là một thằng đần. Đêm đó chúng đã đi vào trong lúc cửa không khóa, bắn một phát cảnh cáo khiến tôi luống cuống không kịp sờ vào súng của mình rồi cuỗm tiền đi mất."
"Chúng lấy mất của ông bao nhiêu?"
"Sáu nghìn."
"Một món bẫm đấy chứ!" Sean nói.
"Vào các ngày thứ Năm, tôi vẫn thường đi đổi séc ra tiền mặt. Giờ thì tôi không làm thế nữa nhưng hồi đó ngu, có biết gì đâu. Dĩ nhiên nếu bọn cướp cũng nhanh trí hơn chút thì chúng sẽ phải tấn công tôi vào buổi sáng vì lúc đó còn nhiều tiền hơn nữa. Tôi nói bọn chúng là những kẻ chuyên nghiệp nhưng không phải là những tay giỏi nhất."
"Thằng bé để cửa mở tên là gì?" Sean hỏi.
"Marvin Ellis. Có thể nó cũng dính líu. Tôi đuổi việc nó luôn ngày hôm sau. Chuyện là chúng bắn phát cảnh cáo ấy vì chúng biết tôi có để một khẩu súng dưới quầy. Mà chuyện đó thì không phải ai cũng biết thế nên hoặc là Marvin đã bảo chúng, hoặc là một trong hai tên bọn chúng từng làm việc ở đây."
"Ông có khai báo điều đó với cảnh sát không?"
"Có chứ." Ông già phẩy tay nhớ lại. "Họ xem qua tất cả các giấy tờ của tôi, thẩm vấn tất cả những người tùng làm việc tại đây. Ít nhất là họ có bảo tôi thế. Nhưng chả bắt được ai. Cậu nói là khẩu súng đó đã được sử dụng để gây án lần nữa?"
"Đúng thế, ông Looney này..."
"Chúa ơi, làm ơn gọi tôi là Lowell."
"Ông Lovvell, ông vẫn còn danh sách những người đã từng làm việc cho ông chứ?"
©S’TENT
Dave nhìn vào tấm gương hai mặt trong phòng thẩm vấn, biết rằng đồng sự của Sean, và có lẽ cả Sean nữa, đang quan sát anh.
Tốt thôi.
Thế nào? Tôi đang thưởng thức chai Sprite của mình. Không biết họ dùng hương liệu gì? Hương chanh. Đúng thế. Tôi rất thích cái vị chanh này, trung sĩ. Thật là ngon. Đúng thế thưa ngài cảnh sát. Tôi thật muốn được uống thêm một chai nữa.
Dave nhìn thẳng vào giữa tấm gương từ phía bên kia chiếc bàn dài và cảm thấy vô cùng khoái trá. Đúng là anh không biết Celeste đã đi đâu với Michael, sự mù mờ đó khiến cho anh cảm thấy sợ hãi, đầu độc đầu óc anh còn hơn cả mười lăm lon bia đêm trước. Nhưng cô ấy sẽ trở lại thôi. Anh hình như nhớ ra đã dọa cô sợ chết khiếp. Anh hẳn đã nói năng lung tung, lải nhải về ma cà rồng hút máu rồi cái gì đã nhập vào thì không thể trở ra được nữa vân vân và vân vân khiến cô phát hoảng.
Không thể trách cô. Là lỗi của anh đã để Thằng Bé xuất hiện và trưng ra bộ mặt xấu xí, hung tợn của nó.
Thế nhưng ngoài việc Celeste và Michael bỏ đi thì anh cảm thấy rất vững vàng. Anh không còn cảm giác do dự của mấy ngày trước nữa. Đêm trước, anh thậm chí còn ngủ sáu tiếng đồng hồ. Lúc thức dậy, miệng khô khốc, nhạt thếch, đầu nặng như chì nhưng hoàn toàn thông suốt.
Anh biết mình là ai. Và anh biết mình đã làm đúng. Ngẫm lại, việc giết hại một người (không thể tiếp tục đổ lỗi cho Thằng Bé nữa vì đó chính là anh, chính là Dave đã ra tay) đã tiếp thêm sức mạnh cho Dave. Anh nghe nói ở một nền văn hóa cổ đại nào đó người ta giết người rồi ăn tim của kẻ đó. Khi ăn tim kẻ thù sẽ khiến sức mạnh của người kia nhập vào mình, quyền lực sẽ nhân đôi, linh hồn cũng vậy. Dave cũng có cảm giác đó. Không, anh không ăn tim ai cả. Không tới mức đó. Nhưng anh có cảm giác vinh quang của kẻ săn mồi. Anh đã giết người. Và anh đã đúng khi làm việc ấy. Anh đã dẹp bỏ được con quái vật ở trong lòng, một con quái vật biến thái luôn khao khát được chạm vào tay của một cậu bé và tan chảy trong đó. Con quái vật đó đã biến mất, đi xuống địa ngục cùng với nạn nhân của Dave. Giết đi một mạng người, đồng thời anh cũng tính sổ luôn thằng người xấu ở trong mình, cái tên biến thái vẫn ẩn nấp trong anh từ hồi mười một tuổi, đứng bên cửa sổ nhà anh, nhìn xuống quang cảnh tiệc tùng trên phố Rester mừng anh trở về. Lúc đó Dave cảm thấy thật yếu đuối, thật đáng thương, như bị phơi bày cả ruột gan ra trước bữa tiệc. Cậu cảm thấy mọi người đang cười thầm sau lưng mình, các bậc phụ huynh cố nặn ra những nụ cười giả tạo, đằng sau nét mặt ngoại giao trưng ra trước đám đông là sự ngấm ngầm thương hại, là sự sợ hãi, là sự ghét bỏ mà Dave đã phải lập tức rời khỏi bữa tiệc để trốn tránh vì nó khiến cậu có cảm giác của một kẻ vô cùng ti tiện.
Nhưng giờ đây sự thù ghét của người khác lại khiến anh trở nên mạnh mẽ bởi vì anh đã có một bí mật mới, lớn hơn rất nhiều so với cái bí mật đáng thương mà dường như ai cũng có thể đoán ra trước đây. Giờ anh có một bí mật khiến anh có thể ngẩng cao đầu thay vì chúi xuống.
Lại đây, anh những muốn nói với mọi người, tôi có một bí mật muốn nói. Lại gần hơn nữa, tôi sẽ nói thầm vào tai bạn.
Tôi vừa mới giết một người.
Mắt Dave xoáy vào viên cảnh sát béo phía sau tấm gương.
Tôi vừa giết một người. Và ông không tài nào chứng minh được.
Hai chúng ta ai mới là kẻ mạnh hơn?
Sean tìm thấy Whitey ở phòng kế bên buồng thẩm vấn C trước tấm gương hai mặt. Ông đứng đó, một chân gác lên chiếc ghế da đã sờn rách, vừa uống cà phê vừa nhìn Dave.
"Sếp đã cho xếp hàng để nhận dạng chưa?"
"Vẫn chưa."
Sean tới bên cạnh ông. Dave đang nhìn thẳng về phía họ, có vẻ như đang xoáy vào mắt Whitey như thể nhìn thấy ông ta ở đó. Kỳ lạ hơn nữa, cậu ta lại còn mỉm cười. Chỉ rất nhẹ thôi nhưng rõ ràng là nét cười.
"Tâm trạng không được tốt lắm?" Sean hỏi.
Whitey nhìn anh trả lời, "Cũng tốt hơn rồi."
Sean gật đầu. Whitey chỉ ly cà phê về phía anh. "Cậu phát hiện ra cái gì đó. Tôi có thể ngửi thấy, đồ ranh con. Khai ra mau."
Sean những định kéo dài thời gian để chọc tức Whitey nhưng cuối cùng lại không nỡ.
"Trong số những người từng làm việc tại cửa hàng rượu Looney Liquors có một cái tên rất thú vị."
Whitey đặt ly cà phê xuống bàn phía sau lưng và rút chân khỏi chiếc ghế. "Ai vậy?"
"Ray Harris."
"Là Ray...?"
Sean cười rõ tươi. "Cha của Brendan Harris, trung sĩ. Một kẻ từng có tiền án tiền sự."
23. Thằng nhóc tên Vince
Whitey ngồi lên chiếc bàn làm việc trống trơn đối diện với bàn của Sean, cầm trên tay một bản báo cáo của nhân viên quản thúc phạm nhân trong thời gian thử thách.
"Raymond Matthew Harris – sinh ngày 6/9/1955. Lớn lên tại phố Twelve Mayhew ở khu Hạ, East Bucky. Mẹ là Delores, nội trợ. Cha là Seamus, một công nhân đã bỏ nhà ra đi vào năm 1967. Sau khi cha hắn ta bị bắt vì tội ăn cắp vặt ở Bridgeport, Connecticut, vào năm 1973 thì con trai cũng bắt đầu sinh sự. Nhiều lần phạm phải các tội như lái xe trong lúc say rượu hay phá rối trật tự công cộng. Ông bố qua đời ở Bridgeport năm 1979 vì xơ cứng động mạch. Cũng trong năm đó, Raymond kết hôn với Esther Scannell – thằng cha này quả thật là may mắn – và tìm được công việc lái tàu điện ngầm cho Sở giao thông Massachusetts. Con đầu lòng Brendan Seamus sinh năm 1981. Vào cuối năm đó, Raymond bị nghi ngờ dính líu tới một vụ biển thủ công quỹ hai mươi ngàn đô la tiền vé tàu. Lời buộc tội này cuối cùng bị hủy bỏ nhưng Raymond bị cơ quan đuổi việc. Sau đó thì hắn ta bắt đầu làm những việc chân tay lặt vặt, như thợ phụ sửa chữa nhà cửa, thu ngân tại cửa hàng rượu Looney Liquors, pha chế rượu tại quán bar và nâng cẩu hàng tại bến cảng. Lại bị đuổi khỏi việc nâng cẩu hàng vì thụt quỹ. Thêm một lần nữa bị buộc tội nhưng cáo trạng không thành mà chỉ bị sa thải. Sau đó bị thẩm vấn vì liên quan tới vụ cướp ở cửa hàng rượu Looney Liquors nhưng rồi lại được thả ra vì thiếu bằng chứng. Cũng trong năm đó còn bị thẩm vấn vì liên quan tới một vụ cướp khác ở cửa hàng rượu Blanchard Liquors tại hạt Middlesex rồi cũng lại được thả ra vì thiếu chứng cớ."
"Bắt đầu được biết đến," Sean nói.
"Đúng là hắn bắt đầu trở nên nổi tiếng," Whitey tán thành. "Năm 1983, một đồng bọn của hắn, một tay Edmund Reese gì đó, đã khai ra Raymond trong vụ trộm bộ sưu tập truyện tranh quý hiếm của một nhà môi giới ở..."
"Truyện tranh?" Sean bật cười. "Ối giời ơi Raymond ơi là Raymond."
"Một bộ truyện tranh giá một trăm năm mươi ngàn đô la đấy," Whitey nói.
"Ra thế, xin lỗi."
"Raymond phản bác rằng văn học thì không có hại nên chỉ bị bốn tháng tù trong đó có hai tháng là tù treo. Khi ra tù thì bắt đầu dính vào nghiện ngập."
"Ái chà."
"Là cocain, những năm tám mươi mà, hồ sơ phạm tội từ đó cũng bắt đầu dày lên. Raymond cũng đủ thông minh để che giấu những thủ đoạn kiếm tiền mua ma túy nhưng lại bị lộ trong khi mua bán chúng. Vì là phạm tội trong thời gian thử thách nên bị kết án một năm tù."
"Và có thời gian suy nghĩ về các lỗi lầm của mình."
"Không hề. Sau đó lại bị bắt một lần nữa vì tội buôn bán hàng ăn cắp xuyên quốc gia trong một chiến dịch phối hợp giữa bên trọng án và cảnh sát liên bang FBI. Thế nào cậu cũng muốn nghe chi tiết này. Đoán xem Raymond đã trộm gì? Đặt vào bối cảnh năm 1984 nhé."
"Sếp không đưa ra tí gợi ý nào sao?"
"Hãy dùng bản năng của cậu mà phán đoán."
"Máy ảnh."
Whitey lườm anh một cái. "Máy ảnh gì. Mau lấy cho tôi một ly cà phê, cậu thế mà cũng gọi là cảnh sát à."
"Vậy là gì?"
"Là bộ game trò chơi trí tuệ Trivial Pursuit. Cậu chắc chả bao giờ nghĩ tới phải không?"
"Truyện tranh và trò chơi trí tuệ. Anh chàng này quả thật rất có phong cách."
"Cùng rất nhiều rắc rối. Hắn ta đánh cắp một chiếc xe tải ở Rhode Island và lái về Massachusetts."
"Thế là bị cảnh sát liên bang tóm."
"Thế là," Whitey lại lườm Sean phát nữa. "Họ quả có tóm được hắn nhưng không thành án."
Sean ngồi thẳng dậy, rút chân xuống khỏi bàn. "Hắn chỉ điểm ai à?"
"Có vẻ thế," Whitey nói. "Sau đó, hồ sơ trống trơn. Nhân viên quản thúc của Raymond chỉ ghi chú rằng hắn ta đều đặn tới điểm danh cho tới khi mãn hạn thử thách vào cuối năm 86. Thế còn quá trình làm việc của hắn?" Whitey nhìn sang phía Sean.
"Tôi có thể bắt đầu chứ?" Sean nói và mở tài liệu của mình ra. "Quá trình làm việc, bảng lương, báo cáo thu nhập, bảo hiểm xã hội, tất cả đều chấm dứt vào tháng Tám năm 1987. Hắn ta giống như là biến mất không để lại dấu vết vậy."
"Cậu đã cho kiểm tra trên phạm vi toàn quốc?"
"Việc đó đang được tiến hành, thưa sếp."
"Cậu dự đoán những khả năng nào có thể xảy ra?"
Sean lại gác hai chân lên bàn, dựa sâu vào ghế. "Một là hắn ta đã chết. Hai là nằm trong chương trình bảo vệ nhân chứng. Thứ ba là hắn chui rất sâu, rất sâu dưới đất rồi đột nhiên hiện ra, tìm khẩu súng cũ và bắt chết cô bạn gái mười chín tuổi của con trai mình."
Whitey ném tập hồ sơ xuống bàn. "Chúng ta thậm chí cũng chưa biết liệu đó có đúng là súng của hắn. Chúng ta chả biết gì sất. Chả ra cái thá gì cả Devine ạ."
"Chúng ta đang vận động chờ khiêu vũ đấy thôi, trung sĩ. Thôi nào, sớm sủa thế này, đừng gắt gỏng với tôi chứ. Chúng ta có một gã vốn là nghi phạm chính trong một vụ cướp mười tám năm trước với khẩu súng gây án. Con trai của hắn hẹn hò với nạn nhân. Đối tượng lại từng có tiền án tiền sự. Tôi muốn điều tra thêm về gã này và con trai hắn. Mà con trai hắn thì sếp biết đấy, lại không có bằng chứng ngoại phạm."
"Nhưng lại vượt qua máy phát hiện nói dối và cả hai chúng ta cũng đều nhất trí rằng thằng bé không có khả năng làm chuyện đó."
"Có lẽ chúng ta đã lầm."
Whitey dùng cổ tay dụi mắt. "Tôi đã ngán bị nhầm lắm rồi."
"Sếp đang định nói là sếp cũng đã nhầm về Boyle?"
Whitey lắc đầu, tay vẫn dụi mắt. "Tôi không hề nói vậy. Tôi vẫn cho rằng gã này có vấn đề nhưng hắn có dính líu tới vụ Katherine Marcus hay không lại là chuyện khác." Ông bỏ tay xuống, hai quầng mắt đỏ ửng. "Nhưng hướng Raymond Harris này cũng chả thấy hứa hẹn gì. Ừ thì điều tra thêm về cậu con trai. Không có vấn đề gì. Rồi cố tìm ra ông bố. Nhưng sau đó thì sao?"
"Lấy khẩu súng ra làm bằng chứng buộc tội," Sean nói.
"Súng có khi đang nằm dưới đáy biển rồi cũng nên. Nếu tôi là thủ phạm thì tôi cũng sẽ làm thế."
Sean ngẩng đầu lên nhìn Whitey. "Ông nên vứt nó sau khi cướp cửa hàng rượu mười tám năm trước."
"Cũng đúng."
"Thế nhưng hắn ta lại không vứt nó đi. Điều đó có nghĩa là..."
"Hắn không được thông minh sáng láng như tôi," Whitey nói.
"Hay như tôi."
"Cái này ban giám khảo vẫn đang cân nhắc."
Sean duỗi người trên ghế, hai bàn tay lồng vào nhau phía sau gáy rồi đẩy hai khuỷu tay về phía tường cho tới khi cảm thấy mọi cơ bắp đều căng lên. Anh rùng mình ngáp một cái rồi thả tay xuống. "Whitey này," anh nói, biết là đã đến lúc phải đưa ra câu hỏi mà anh đã cố lần lữa trì hoãn cả buổi sáng.
"Có chuyện gì?"
"Trong hồ sơ của ông có nhắc gì tới các đồng phạm của hắn không?"
Whitey lại cầm tập hồ sơ lên và giở vài trang đầu ra. "Một số đồng phạm được cảnh sát biết đến là Reginald (tức Reggie Duke) Neil, Patrick Moraghan, Kevin Sirracci Đồ Tể, Nicholas Savage, hừm, Anthony Waxman..." Đọc tới đây Whitey chợt ngẩng lên nhìn Sean và Sean biết rằng tên của người kia cũng nằm trong đó. "Jimmy Marcus," Whitey đọc tiếp. "Bí danh Jimmy Khu Hạ," cầm đầu một băng nhóm tội phạm khét tiếng có tên là Những chàng trai phố Rester." Whitey nói xong và gập tài liệu lại.
"Không phải là lại xuất hiện những tình tiết mới sao?" Sean kết luận.
Jimmy chọn một tấm bia đơn giản, màu trắng. Người bán hàng nói năng nhỏ nhẹ, kính cẩn như thể bản thân anh ta cũng không muốn xuất hiện ở một nơi như thế này nhưng vẫn tìm cách dẫn dắt Jimmy tới chỗ những tấm bia đắt tiền hơn, những tấm bia bằng hoa cương có khắc hình các thiên thần, tiểu thiên sứ hay hoa hồng. "Hay là một cây thanh giá kiểu Celtic, một sự lựa chọn rất phổ biến đối với..."
Jimmy những đợi anh ta buông ra tiếp câu "với những người như các ông" nhưng người bán hàng kiềm lại được và kết thúc bằng mệnh đề "... với rất nhiều người hiện nay."
Jimmy sẽ kiếm tiền xây cả tượng đài nếu có thể làm Katie hài lòng nhưng hắn biết con gái mình không phải là một người phô trương, thích trang trí cầu kỳ. Con bé thích mặc quần áo đơn giản, trang sức đạm bạc, không thích đeo vàng và hiếm khi trang điểm trừ những dịp quan trọng. Katie thích những thứ sạch sẽ, có một chút phong cách nhẹ nhàng, và đó chính là lý do mà Jimmy chọn tấm bia màu trắng và những chữ khắc trên đó được viết khá bay bướm. Người bán hàng cảnh báo Jimmy rằng điều đó sẽ khiến giá tiền đội lên gấp đôi nhưng Jimmy chỉ quay đầu lại nhìn gã diều hâu ấy bằng một ánh mắt khiến hắn loạng choạng lùi lại vài bước rồi bảo, "Muốn lấy tiền mặt hay ghi séc?"
Jimmy nhờ Val chở tới đây và khi rời khỏi lại một lần nữa chui vào trong chiếc Mitsubishi 3000 GT để lần thứ mười tự hỏi tại sao một gã ngoài ba mươi có thể lái một chiếc xe thế này mà không cảm thấy lố bịch.
"Chúng ta đi đâu tiếp đây, Jim?"
"Đi làm tí cà phê."
Val thường hay bật mấy thứ nhạc rap vớ vẩn ầm ĩ trong xe, tiếng bass nện thình thịch lên cửa kính sẫm màu. Một thằng ranh da đen thuộc tầng lớp trung lưu hay một đứa da trắng đua đòi đang hát về gái gẩm, súng ống khiến Jimmy liên tưởng tới đám ca sĩ nhí nhố trên MTV mà hắn sẽ chẳng bao giờ biết tới nếu không nghe thấy Katie nhắc tên bọn họ trong lúc nói chuyện điện thoại với bạn gái. Jimmy đã rất cảm kích vì sáng nay Val không bật nhạc trong xe. Hắn ghét nhạc rap không phải vì đó là nhạc của người da đen sống tại những khu ổ chuột, vì đó cũng chính là nơi sản sinh ra những âm điệu P-Funk, soul và blues nguyên chất, mà chỉ vì không thấy nó tài tình ở chỗ nào. Tuôn ra mấy câu hài hước có chút vần điệu, có chút thô tục cùng với DJ tua tới tua lui mấy bản nhạc khác rồi biểu diễn mấy động tác phồng ngực lúc nói trước mic. Ờ đúng, rất thô ráp rất nguyên thủy, rất đường phố, rất thực tế, mẹ kiếp. Thì đái thành hình tên mình trên tuyết rồi nôn ra đó cũng có gì khác đâu. Có lần hắn nghe thấy một gã phê bình âm nhạc vớ vẩn trên đài nói rằng việc sử dụng âm điệu của các bài hát khác làm nền hát rap cũng là một "hình thái nghệ thuật" khiến một người không biết gì về nghệ thuật như Jimmy những muốn xông vào loa tát cho cái tên khốn hẳn là một gã da trắng, tinh vi và củ chuối kia. Nếu đó là nghệ thật thì phần lớn những gã trộm cướp mà Jimmy quen biết cũng đều là nghệ sĩ cả. Bọn họ hẳn sẽ ngạc nhiên khi phát hiện ra điều đó.
Hay cũng có thể là vì hắn đang già đi. Hắn vẫn biết rằng việc không còn hiểu được âm nhạc của những người trẻ hơn chính là dấu hiệu đầu tiên của sự chuyển giao thế hệ. Nhưng sâu trong lòng mình hắn biết là không phải vậy. Chỉ đơn giản là nhạc rap chẳng ra gì, nhạt nhẽo, đơn điệu và Val nghe nó cũng giống như việc cậu ta lái chiếc xe này, cố bám vào những thứ vốn chẳng có chút giá trị nào.
Họ dừng lại mua đồ ở quán Dunkin's Donuts, vứt nắp ly vào thùng rác ngoài cửa rồi đứng dựa lưng vào thùng xe uống cà phê.
"Tối qua chúng tôi có ra ngoài hỏi han như cậu yêu cầu." Val nói.
Jimmy đấm vào tay Val vẻ cảm kích. "Cảm ơn cậu."
Val đấm lại. "Đấy không chỉ là vì cậu đã ngồi tù hai năm cho tôi, Jimmy. Cũng không phải là tôi cần tới đầu óc của cậu để xử lý công chuyện. Mà vì Katie là cháu gái tôi."
"Tôi biết."
"Có thể không phải ruột thịt hay gì đó nhưng tôi rất quý con bé."
Jimmy gật gù. "Các cậu là những ông cậu tốt nhất trên đời này."
"Cậu không đùa đấy chứ?"
"Tôi nói nghiêm túc đấy."
Val nhấp một ngụm cà phê rồi im lặng trong chốc lát. "Thế này, có vẻ như cảnh sát đã nói đúng về O'Donnell và Farrow. O'Donnell thì lúc đó đang ở trong phòng giam của hạt. Farrow thì tham dự một bữa tiệc mà chúng tôi đã đích thân nói chuyện với bao nhiêu nhỉ, khoảng chín gã có mặt ở đó, tất cả đều làm chứng có lợi cho hắn."
"Tất cả đều đáng tin cậy chứ?"
"Ít nhất thì có tới phân nửa là đáng tin cậy. Chúng tôi cũng đánh hơi xung quanh nhưng gần đây không thấy có vụ đâm thuê chém mướn nào. Phải tới năm rưỡi rồi chưa có vụ nào. Cậu cũng biết mà?"
Jimmy gật đầu, nhấp một ngụm cà phê.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian